Khoa học cứng và Khoa học mềm

Tác Giả: Laura McKinney
Ngày Sáng TạO: 2 Tháng Tư 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 13 Có Thể 2024
Anonim
The Strange Science of the Impossible Burger | WIRED
Băng Hình: The Strange Science of the Impossible Burger | WIRED

NộI Dung

Các khoa học Đó là một hệ thống kiến ​​thức đã có được thông qua quan sát và thực nghiệm. Hệ thống này có cấu trúc liên hệ các lĩnh vực khoa học khác nhau với nhau, theo những cách cụ thể. Trong đó có những định luật chung đã được phát triển một cách hợp lý và mang tính thực nghiệm.

Các kiến thức khoa học Chúng cho phép bạn đặt câu hỏi và phát triển lý luận để trả lời dự kiến ​​những câu hỏi đó. Các câu trả lời có thể cho những câu hỏi này (được hình thành từ suy luận logic) được gọi là giả thuyết.

Khoa học có một phương pháp cụ thể để giải quyết vấn đề và xây dựng kiến ​​thức được gọi là Phương pháp khoa học. Nó diễn ra trong các giai đoạn khác nhau:

  • Quan sát: Một sự kiện được quan sát gây ra câu hỏi hoặc vấn đề
  • Công thức giả thuyết: Một câu trả lời hợp lý và khả thi cho câu hỏi hoặc vấn đề đó được phát triển
  • Thử nghiệm: Cho phép bạn kiểm tra xem giả thuyết có đúng không
  • Phân tích: Kết quả của thí nghiệm được phân tích để xác nhận hoặc bác bỏ giả thuyết và thiết lập kết luận.

Phương pháp khoa học phụ thuộc vào hai đặc điểm cơ bản:


  • Khả năng tái lập: Tất cả các thử nghiệm khoa học phải có thể được sao chép để xác minh kết quả.
  • Khả năng phản bác: Mọi tuyên bố khoa học phải được xây dựng theo cách có thể bác bỏ được.

Sự phân biệt giữa khoa học cứng và mềm không phải là một sự phân chia chính thức mà được dùng để chỉ ra:

Khoa học cứng là những ngành sử dụng phương pháp khoa học với những kết quả và khả năng xác minh chặt chẽ, chính xác nhất.

  • Họ có khả năng đưa ra các dự đoán.
  • Thực nghiệm: Đối tượng nghiên cứu của nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các thí nghiệm.
  • Theo kinh nghiệm: nói chung (nhưng không phải trong mọi trường hợp) các khoa học cứng không phải là lý thuyết mà là thực nghiệm, tức là chúng dựa trên sự quan sát các hiện tượng. Mặc dù có một niềm tin rộng rãi rằng chỉ có cái gọi là khoa học cứng là thực nghiệm, chúng ta sẽ thấy rằng khoa học mềm cũng vậy.
  • Định lượng được: kết quả thí nghiệm không chỉ định tính mà còn cả định lượng.
  • Tính khách quan: Do những đặc điểm đã nêu, khoa học cứng thường được coi là khách quan hơn khoa học mềm.

Các ngành khoa học mềm có thể sử dụng phương pháp khoa học nhưng trong một số trường hợp, chúng chỉ đạt được kết luận lý thuyết thông qua lý luận, mà không thể thực nghiệm.


  • Dự đoán của họ không quá chính xác và trong một số trường hợp, họ không thể đưa ra chúng.
  • Trong khi chúng có thể bao gồm thử nghiệm, chúng có thể đạt được kết luận lý thuyết mà không cần tiến hành thí nghiệm.
  • Chúng được coi là ít thực nghiệm hơn vì chúng có thể nghiên cứu các hiện tượng không thể tái tạo trong điều kiện phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, họ cũng quan sát các sự kiện cụ thể (nghĩa là chúng thực sự mang tính kinh nghiệm).
  • Không thể định lượng được: kết quả không thể đo lường được hoặc không có giá trị đối với các khía cạnh định lượng cũng như đối với các khía cạnh định tính của chúng
  • Tính chủ quan: khoa học mềm phản ánh sự can thiệp của người quan sát vào hiện tượng được quan sát và không phủ nhận tính chủ quan của người nghiên cứu. Đây là lý do tại sao họ được cho là chủ quan hơn các khoa học cứng.

Các phân biệt giữa khoa học cứng và mềm nó dựa trên giả định rằng một loại khoa học thực nghiệm hơn có thể tiếp cận trực tiếp hơn với sự thật và tránh sự mơ hồ. Tuy nhiên, hiện nay ở một trong những ngành khoa học cứng là vật lý học, đang có những tranh cãi không thể giải quyết được như mâu thuẫn giữa vật lý lượng tử và vật lý cổ điển.


Ví dụ về Khoa học cứng

  1. toán học: Khoa học hình thức, tức là nó xác nhận lý thuyết của mình dựa trên các mệnh đề, định nghĩa, tiên đề và quy tắc tham chiếu. Nghiên cứu các thuộc tính và mối quan hệ giữa các thực thể trừu tượng nhất định (số, hình hình học hoặc ký hiệu) theo suy luận logic. Nó được sử dụng bởi tất cả các ngành khoa học cứng khác.
  2. Thiên văn học: Nghiên cứu các đối tượng và hiện tượng có nguồn gốc bên ngoài bầu khí quyển của Trái đất, đó là các ngôi sao, hành tinh, sao chổi và các cấu trúc phức tạp hơn như thiên hà và chính vũ trụ. Anh ấy sử dụng vật lý và hóa học để có thể giải thích những quan sát của mình về các vật thể và sự kiện từ xa.
  3. Vật lý: Nghiên cứu hành vi của vấn đề, năng lượng, thời gian và không gian, và những thay đổi và tương tác giữa các yếu tố này. Các đại lượng vật lý là: năng lượng (và các dạng khác nhau của nó), động lượng, khối lượng, điện tích, entropi. Các thực thể vật chất có thể là: vật chất, hạt, trường, sóng, không-thời gian, người quan sát, vị trí.
  4. Hóa học: Nghiên cứu vật chất cả về thành phần, cấu trúc và tính chất như trong những thay đổi mà nó trải qua. Hóa học coi rằng một chất này biến thành một chất khác khi liên kết hóa học giữa các nguyên tử thay đổi. Các nguyên tử nó là đơn vị cơ bản (mặc dù không thể phân chia) của hóa học. Nó bao gồm một hạt nhân được tạo thành từ các proton và neutron xung quanh đó là một nhóm các electron quay theo những quỹ đạo cụ thể. Hóa học được chia thành hóa học hữu cơ (khi nghiên cứu hóa học của sinh vật) và hóa học vô cơ (khi nghiên cứu hóa học của vật chất trơ).
  5. sinh học: Nghiên cứu sinh vật sống trong tất cả các đặc điểm của nó, từ dinh dưỡng, sinh sản và hành vi đến nguồn gốc, sự tiến hóa và mối quan hệ của nó với các sinh vật sống khác. Nó nghiên cứu các quần thể lớn như loài, quần thể và hệ sinh thái, cũng như các đơn vị nhỏ, chẳng hạn như tế bào và di truyền. Đây là lý do tại sao nó có nhiều loại đặc sản.
  6. Thuốc: Nghiên cứu cơ thể con người trong tình trạng hoạt động lành mạnh cũng như trong các tình huống bệnh lý (bệnh tật). Đó là, nó nghiên cứu sự tương tác của nó với vi sinh vật và các chất khác có thể có lợi hoặc có hại cho bạn. Nó là một ngành khoa học gắn liền trực tiếp với ứng dụng kỹ thuật của nó, tức là nâng cao sức khỏe con người.

Ví dụ về khoa học mềm

  1. Xã hội học: Nghiên cứu cấu trúc và hoạt động của các xã hội, và bất kỳ hiện tượng tập thể nào của con người. Con người sống theo nhóm và các mối quan hệ cụ thể được thiết lập giữa họ. Xã hội học nghiên cứu, phân loại và phân tích các mối quan hệ này. Tất cả các phân tích đều dựa trên các lý thuyết và mô hình cụ thể, mà nhà xã hội học phải chỉ rõ khi trình bày kết quả nghiên cứu của họ. Phương pháp nghiên cứu của họ có thể là định tính (nghiên cứu trường hợp, phỏng vấn, quan sát, nghiên cứu hành động), định lượng (thí nghiệm ngẫu nhiên, bảng câu hỏi, khảo sát và các kỹ thuật lấy mẫu khác) hoặc so sánh (những nghiên cứu so sánh các hiện tượng tương tự với mục đích rút ra kết luận chung). ).
  2. Lịch sử: Nghiên cứu quá khứ của loài người. Nó là một khoa học diễn giải thiết lập các mối quan hệ giữa các sự kiện, tác nhân và hoàn cảnh khác nhau. Vì anh ta đề cập đến các sự kiện trong quá khứ, anh ta không thể duy trì lý thuyết của mình trong thực nghiệm. Tuy nhiên, tính khách quan của anh ta dựa trên bằng chứng mà anh ta sử dụng để biện minh cho những mối quan hệ này, cũng như dựa trên logic trong lập luận của anh ta.
  3. Nhân chủng học: Nghiên cứu con người từ các tiêu chí của cả khoa học mềm (như xã hội học và tâm lý học) và khoa học cứng (như sinh học). Tuy nhiên, do khả năng thử nghiệm hạn chế, nó được coi là một khoa học mềm. Nghiên cứu các hành vi cơ bản của con người, tìm kiếm các đặc điểm chung giữa các các nền văn hóa.
  4. Tâm lý học: Nghiên cứu hành vi con người và các quá trình tinh thần của cả cá nhân và nhóm người. Có những định hướng tâm lý học khác nhau đặt ra những quan niệm trái ngược nhau về hoạt động của tâm trí con người. Vì lý do này, nghiên cứu khoa học trong tâm lý học luôn phải đưa ra các lý thuyết và giả định rõ ràng mà dựa trên đó nó đưa ra các giả thuyết và giải thích các quan sát.

Có thể phục vụ bạn

  • Ví dụ về Khoa học Chính xác
  • Ví dụ về Khoa học Thực tế
  • Ví dụ từ Khoa học Tự nhiên
  • Ví dụ từ Khoa học xã hội


Chúng Tôi Khuyên BạN Nên Xem

Cầu nguyện với ai
Danh từ với C